Tên thường gọi: Cây xương rồngTên khoa học: CactusLoài: Thực vật có hoaKích thước: Mỗi loài có chiều cao khác nhau (cao nhất là 19,2 m)Nguồn gốc: Châu Mỹ (Từ Patagonia ở phía nam đến một phần phía tây Canada)Phân bố: Châu Mỹ, châu Phi và Sri Lanka
Thông tin mô tả
– Xương rồng có thân cây mọng nước – đảm nhận nhiệm vụ chính là quang hợp. Thân cây không có lá mà được thay thế bằng gai (được tạo thành do sự tiêu biến của lá) – nó là điểm đặc trưng của phần lớn các loài xương rồng. Bề mặt thân cây nhẵn hoặc có những đoạn nhô lên và chúng thường được gọi là các nốt sần. Sự đặc biệt của loài cây này phụ thuộc vào lượng nước mà thân cây lưu trữ: khi đầy có tới 90% khối lượng của cây xương rồng là nước. Thân cây của hầu hết các xương rồng có màu xanh lá cây, thường xanh hoặc nâu xanh. Thân cây có chứa chất diệp lục và có khả năng thực hiện quá trình quang hợp, ngoài ra chúng cũng có các lỗ khí khổng lồ.
– Phần lớn ở xương rồng không có lá, vì vậy quá trình quang hợp diễn ra ở thân cây. Một số trường hợp ngoại lệ như loài Pereskia trông như một cây bình thường và có nhiều lá, hoặc như nhiều xương rồng trong nhóm Opuntia cũng có lá, chúng có thể tồn tại lâu dài hoặc chỉ xuất hiện trong mùa sinh trưởng và sau đó bị mất đi. Chi nhỏ Maihuenia cũng dựa vào lá để quang hợp. Ngay cả những loài xương rồng không có lá quang hợp nhìn thấy được thường có lá rất nhỏ, chỉ dài hơn 0,5 mm trong khi một nửa số loài được nghiên cứu hầu như luôn dài hơn 1,5 mm. Chức năng chủ yếu của chúng là sản xuất các chất kích thích thực vật, chẳng hạn như auxin.
– Hoa xương rồng của là một loại biến dị. Thông thường, chúng có nguồn gốc từ thân hoặc các mô receptacle tạo thành cấu trúc gọi là pericarpel. Hoa xương rồng thường có nhiều nhị hoa, nhưng chúng chỉ mọc đơn độc. Các nhị hoa thường phát sinh từ khắp bề mặt bên trong phần trên cùng của ống hoa, mặc dù ở một số loài xương rồng, nhị hoa được tạo thành trong một hoặc nhiều chuỗi riêng biệt. Hoa thường nở theo kiểu đối xứng tâm nhưng cũng có thể là đối xứng song phương. Hoa có màu sắc từ trắng đến vàng, đỏ và đỏ tươi.
Khả năng thích ứng
Tất cả các loài xương rồng đều có thể tồn tại trong môi trường khô nóng, nhưng tổ tiên ban đầu của loài xương rồng hiện đại đã thích nghi với thời kỳ hạn hán liên tục.
Sự vắng mặt của lá có thể thấy đó là một trong những tính năng nổi bật nhất của hầu hết các loài xương rồng. Pereskia (gần giống với các loài tổ tiên) đều có lá dài, tuy nhiên chúng dày và mọng nước. Một vấn đề quan trọng trong việc lưu giữ nước là tỉ lệ giữa diện tích bề mặt và thể tích. Mất nước tỉ lệ thuân với diện tích bề mặt trong khi lượng nước lại tỉ lệ thuận với thể tích. Các cấu trúc có tỉ lệ diện tích bề mặt lớn và khối lượng lớn, như lá mỏng, nhất thiết phải có tốc độ mất nước cao hơn so với dạng kết cấu có tỉ lệ diện tích và thể tích nhỏ, chẳng hạn như thân dày. Gai được tiêu biến từ lá cho thấy mặc dù gai có diện tích bề mặt lớn nhưng khi trưởng thành chúng chỉ chứa ít hoặc không chứa nước mà chỉ gồm các sợi cấu tạo từ các tế bào chết. Gai giúp bảo vệ cây tránh khỏi các động vật ăn cỏ, ngụy trang ở một số loài và hỗ trợ bảo tồn nước theo nhiều cách. Chúng tạo ra một lớp moister gần bề mặt của cây xương rồng nhằm làm giảm sự thoát hơi nước. Chúng có thể tạo thành bóng râm, làm giảm nhiệt độ bề mặt xương rồng và làm giảm khả năng mất nước. Khi có đủ không khí ẩm, chẳng hạn như trong sương mù hoặc sương mù buổi sáng sớm, gai có thể ngưng tụ độ ẩm, sau đó nhỏ giọt xuống đất và được rễ hấp thụ.
Phần lớn các loài xương rồng có thân cây là cơ quan chính để chứa nước. Nước có thể chiếm tới 90% tổng khối lượng của cây xương rồng. Hình dạng gốc cũng có sự khác nhau. Xương rồng hình trụ hoặc hình cầu đều tạo ra tỉ lệ diện tích bề mặt thấp đến khối lượng thấp, do đó làm giảm khả năng mất nước, cũng như giảm thiểu tác động của ánh sáng mặt trời.
Phân loại
Năm 1984, người ta quyết định rằng nên thành lập một nhóm nghiên cứu, sau này được gọi là Nhóm Hệ thống Cactaceae Quốc tế (ICSG) để phân loại xương rồng thành các phân họ khác nhau, bao gồm 4 phân họ lớn: + Phân họ Pereskioideae: được cho là có quan hệ gần nhất với tổ tiên của Cactaceae. Chúng là các cây bụi có lá, thân cây tròn, có hai hệ thống được sử dụng để quang hợp là cơ chế C3 và chuyển hóa axit crassulean (CAM) + Phân họ Opuntioideae: bao gồm khoảng 15 chi. Chúng có thể có lá khi còn non nhưng sẽ bị mất ngay sau đó. Thân cây của chúng được chia thành các khớp nối riêng biệt hoặc các miếng đệm. + Phân họ Maihuenioideae: có chi duy nhất là Maihuaenia. Cây có một số tính năng nguyên thủy của loài xương rồng. Cây có lá, vì vậy sự trao đổi chất axit crassulean gần như là không có. + Phân họ Cactoideae: chia thành chín bộ, đây là phân họ lớn nhất, bao gồm tất cả các xương rồng điển hình. Lá thường không xuất hiện, mặc dù đôi khi thường thấy ở một số cây non. Thân cây thường không đươc chia thành các phân đoạn mà tạo thành gân.
Sinh sản
Sử dụng
Xương rồng có nhiều công dụng khác nhau. Chúng được sử dụng làm thực phẩm cho con người và làm thức ăn cho các loài động vật, thường là sau khi đốt cháy gai. Một số loài xương rồng đã được chứng minh có chứa các tác nhân thần kinh, các hợp chất hóa học có thể gây ra những thay đổi về tâm trạng, nhận thức thông qua các tác động của chúng lên não. Hai loài được các dân tộc bản đia ở Châu Mỹ sử dụng trong thời gian lịch sử lâu đời là Lophophora williamsii ở Bắc Mỹ và Echinopsis pachanoi ở Nam Mỹ, cả hai loài đều chứa mescaline – một alkaloid gây ảo giác tự nhiên. Ngoài việc sử dụng chúng như các tác nhân thần kinh, một số xương rồng được sử dụng trong y học thảo dược. Xương rồng được sử dụng làm vật liệu xây dựng. Hàng rào xương rồng sống được sử dụng làm rào chắn. Các bộ phận của xương rồng, chẳng hạn như Cereus repandus và Echinopsis atacamensis được sử dụng trong các tòa nhà và dùng làm đồ nội thất. Các gai và lông phát triển tốt của một số loài xương rồng còn được sử dụng như một nguồn chất xơ để làm đầy gối và dệt.
Album Ảnh